Trong một buổi sáng thứ 7 làm việc tập trung, hiệu quả, Hội nghị đã được nghe nhiều ý kiến rất tâm huyết, trách nhiệm, sát thực tiễn về vấn đề phát triển thị trường lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Nhiều ý kiến phân tích, đánh giá rất sâu sắc và gợi ý, đề xuất định hướng, nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể, thiết thực.

Tôi hoan nghênh và đánh giá cao Bộ LĐTBXH đã chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan tham mưu tổ chức thành công Hội nghị hôm nay. Đồng thời, giao Bộ LĐTBXH nghiêm túc tiếp thu đầy đủ các ý kiến phát biểu tại Hội nghị hôm nay để nghiên cứu, tiếp thu, hoàn thiện cơ chế, chính sách và sớm trình ban hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát triển thị trường lao động.

Thưa toàn thể các đồng chí và quý vị!

Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để có thể đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Lao động - việc làm là vấn đề quan trọng, là một trong các cân đối lớn của nền kinh tế.

(Chúng ta đều biết, khi lao động trong nền kinh tế quá dư thừa, thiếu việc làm và tỷ lệ thất nghiệp cao có thể dẫn đến nhiều hệ lụy, thậm chí bất ổn xã hội; ngược lại, nếu thiếu hụt lớn lao động, chất lượng lao động thấp… sẽ dẫn đến giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế).

Chính sách chăm lo, tạo việc làm cho người lao động là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Những năm qua, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo hành lang pháp lý phát triển thị trường lao động, từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế; các quy định pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, tạo khung khổ pháp lý phát triển thị trường lao động. Đến nay, về cơ bản, thị trường lao động đã được hình thành và từng bước vận hành theo cơ chế thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cụ thể:

(1) Thị trường lao động đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày càng hội nhập, từng bước tiệm cận với thị trường lao động khu vực và thế giới.

- Thể chế thị trường lao động ngày càng hoàn thiện. Hệ thống thông tin thị trường từng bước đáp ứng được yêu cầu. Quan hệ lao động được thiết lập hài hòa, công bằng.

- Các định chế thị trường hỗ trợ kết nối cung cầu và các định chế an sinh xã hội cơ bản được hình thành tốt. Người lao động được tạo điều kiện tham gia BHXH, bảo hiểm thất nghiệp để chủ động khắc phục các rủi ro do mất hoặc giảm giờ việc làm, tai nạn lao động, mất sức lao động, nghỉ hưu…

 (2) Cung - cầu lao động được hình thành và kết nối trên các nguyên lý của thị trường, trong đó:

- Về cầu: Cùng với kinh tế tăng trưởng dương liên tục nhiều năm, cầu lao động không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng; cơ cấu ngành, nghề theo hướng hiện đại, từng bước tạo việc làm đầy đủ, bền vững hơn cho người lao động. Cơ hội việc làm tăng với việc hằng năm, thị trường lao động tạo thêm việc làm mới cho khoảng 1,6 triệu lao động.

- Về cung: hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp phát triển được chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của thị trường lao động để phát triển nguồn nhân lực về số lượng, liên thông giữa các cấp trình độ, từng bước nâng cao chất lượng, góp phần tạo cung lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề theo tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, từng bước tiếp cận tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực và thế giới.

- Thị trường lao động trở thành động lực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Theo số liệu gần đây, lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý II năm 2022 là 50,5 triệu, tăng 504,6 nghìn người (tăng 1,01%) so với quý trước và tăng 701,8 nghìn người (tương ứng tăng 1,41%) so với cùng kỳ năm trước.

Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu rộng; đặc biệt là ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 làm bộc lộ rõ hơn các điểm yếu của thị trường lao động việc làm. Tôi cơ bản nhất trí với các hạn chế của thị trường lao động như đã nêu trong Báo cáo của Bộ và lưu ý thêm:

 (1) Thị trường lao động chưa theo kịp được yêu cầu phát triển KTXH, chưa thích ứng đầy đủ được với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.

(2) Thể chế phát triển thị trường lao động còn bất cập; chưa có cơ chế, chính sách đầy đủ về giao dịch việc làm, quản lý chất lượng thị trường, các quy định về tiêu chuẩn lao động và quan hệ lao động.

(3) Cân đối cung – cầu lao động chưa thật hiệu quả dẫn tới chưa tiệm cận được năng suất tiềm năng (còn thiếu thừa lao động cục bộ, làm việc không đúng ngành nghề đào tạo…). Hệ thống thông tin thị trường chưa thực sự hoàn chỉnh. Kết nối thị trường lao động trong nước và quốc tế còn yếu.

(4) Lưới an sinh xã hội có độ bao phủ thấp, chưa đạt hiệu quả cao, mới thực hiện vai trò giá đỡ cho một phần của thị trường lao động[1].

(5) Giáo dục – đào tạo chưa đáp ứng đầy đủ được yêu cầu nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nhân lực chất lượng cao, ngành nghề mới, kỹ năng nghề tương lai phục vụ phát triển KTXH và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập quốc tế. Việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, huy động nguồn lực đầu tư còn hạn chế.

Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, trong đó:

(1) Nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, nhất là người đứng đầu một số cơ quan bộ, ngành, đơn vị về vai trò, tầm quan trọng phát triển thị trường lao động còn hạn chế.

(2) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển thị trường lao động chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình thực tế.  Năng lực quản trị, vận hành thị trường lao động còn yếu.

 (3) Chưa phát huy tốt vao trò kết nối cung – cầu lao động, hỗ trợ người lao động vượt qua các cú sốc của Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm.

(4) Chưa chú trọng kết nối thị trường lao động trong nước với thị trường lao động quốc tế.

(5) Chưa thực sự quan tâm phát triển cơ sở dữ liệu thị trường lao động đầy đủ, cập nhật phục vụ công tác phân tích, dự báo và chỉ đạo điều hành.

Thưa các đồng chí và quý vị!

Trong giai đoạn phát triển mới, chúng ta có cả những thời cơ, vận hội đan xen khó khăn, thách thức; nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn. Trong bối cảnh đó, Chính phủ xác định ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; điều hành hài hòa, hợp lý, hiệu quả, hỗ trợ lẫn nhau giữa các chính sách tiền tệ - tài khóa; triển khai Chương trình phục hồi, phát triển KTXH (với quy mô 340 nghìn tỷ - khoảng 4%GDP), tập trung vào y tế, an sinh xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng; cải cách hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, an toàn, minh bạch.

Chúng ta đang tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Chúng ta muốn có những ngành công nghiệp phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, sở hữu những phát minh, sáng chế mới, những công nghệ tiên tiến nhất thì chúng ta phải có được lao động chất lượng cao, được đào tạo bài bản, làm chủ được công nghệ. Cần có cơ chế kiến tạo, thu hút, giữ chân những lao động có trình độ, kỹ năng tay nghề cao nhất để chính họ trở thành nguồn động lực phát triển nền kinh tế nhanh, bền vững, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe nhất của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Đảng ta xác định ba đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực, đồng thời Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu: “…phát triển thị trường lao động, hướng tới xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế…”; “Phát triển thị trường lao động, hướng đến việc làm bền vững. Xác lập các nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động phù hợp với sự phát triển của thị trường, xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ…”.

Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển thị trường lao động thời gian tới, tôi cơ bản nhất trí với Báo cáo và ý kiến phát biểu của các đồng chí dự Hội nghị. Tôi nhấn mạnh một số nội dung sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về thị trường lao động. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật đồng bộ, thống nhất để thị trường lao động phát triển theo hướng linh hoạt, hiện đại, đầy đủ, bền vững, hội nhập quốc tế, nhằm giải phóng triệt để sức sản xuất, tập trung phát triển lao động có kỹ năng, thúc đẩy tạo việc làm bền vững, có thu nhập cao. Tiếp tục nội luật hóa và quy định cụ thể các tiêu chuẩn lao động phù hợp với điều kiện của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế (các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các FTA thế hệ mới) mà Việt Nam cam kết và phê chuẩn.

Phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm, hệ thống giáo dục nghề nghiệp và lưới an sinh xã hội...

Thứ hai, tập trung xây dựng hệ thống quản trị thị trường lao động hiện đại, minh bạch để mỗi người lao động từ khi tham gia đến khi rời thị trường lao động được quản trị minh bạch, thống nhất, tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động giao dịch việc làm, tiếp cận thông tin về thị trường lao động việc làm; để doanh nghiệp dễ tiếp cận cung lao động, nâng cao chất lượng lao động, cơ sở đào tạo có chiến lược, kế hoạch đào tạo, cung ứng kịp thời và sát với nhu cầu thực tiễn. Đẩy mạnh đầu tư số hóa quản trị lao động việc làm kết nối với số hóa quản lý dân cư.

Thứ ba, chú trọng đầu tư cả về cơ chế chính sách, nguồn lực để xây dựng hệ thống thông tin và dự báo thị trường lao động đa tầng từ địa phương cấp tỉnh, cấp vùng tới toàn quốc, đa lĩnh vực theo ngành nghề, có các cấp trình độ khác nhau. Hệ thống thông tin và dự báo hướng tới đối tượng người sử dụng là các cơ quan quản lý nhà nước các cấp, doanh nghiệp và nhất là người lao động.

Thứ tư, đẩy mạnh xây dựng chính sách việc làm chủ động, phù hợp với cơ chế thị trường, đa dạng hoá các nguồn tín dụng để thúc đẩy việc tạo việc làm mới, việc làm sáng tạo, chất lượng cao, việc làm bền vững, việc làm xanh, việc làm cho đối tượng yếu thế, vùng sâu vùng xa.

Thứ năm, cần quan tâm tới việc dịch chuyển lao động, việc làm theo địa lý, địa bàn, đảm bảo có cơ cấu phân bổ lao động việc làm hợp lý trên toàn quốc; có cơ chế khuyến khích hỗ trợ dịch chuyển lao động, hỗ trợ các địa bàn còn yếu kém; đẩy mạnh liên kết thị trường việc làm giữa các vùng trong nước, hình thành cơ chế kết nối cung cầu tự động giữa thị trường trong và ngoài nước.

Thứ sáu, đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt để nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng thời cơ dân số vàng, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh huy động các nguồn lực đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

Thứ bảy, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 16/CT-TTg và Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tổ chức giảng dạy chương trình giáo dục thường xuyên cấp trung học phổ thông để đẩy mạnh phân luồng và bảo đảm quyền lợi của học sinh vừa được học nghề, vừa được học văn hóa ngay tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp, nhất là đối với con em công nhân lao động.

Thứ tám, rà soát, đánh giá sắp xếp tổ chức, đầu tư nâng cao năng lực của hệ thống đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng, đề xuất mô hình liên kết vùng, xây dựng các trung tâm đào tạo vùng, trung tâm đào tạo quốc gia theo vùng kinh tế trọng điểm.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từng căn dặn: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới - trước hết là tổ chức nền sản xuất mới. Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình”.

Thứ chín, tập trung tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong kết nối giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp; xây dựng chính sách ưu đãi cho học tập, nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, đánh giá công nhận trình độ kỹ năng cho người lao động. Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại, đào tạo bổ sung, đào tạo tại doanh nghiệp để thu hút hiệu quả lao động tại chỗ nhằm giải quyết triệt để vấn đề thiếu hụt nhân lực cục bộ, vấn đề đứt gãy lao động phục vụ phục hồi kinh tế nhanh và bền vững.

Nhân dịp này, tôi trân trọng cảm ơn và mong muốn các cơ quan, tổ chức quốc tế tiếp tục hỗ trợ về tài chính, nâng cao năng lực, chia sẻ kinh nghiệm phát triển, quản lý thị trường lao động và nguồn nhân lực của Việt Nam.

Sau Hội nghị hôm nay, Bộ LĐTBXH chủ trì, phối hợp với các Bộ, ban, ngành, với các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp và tổ chức tiếp thu đầy đủ, nghiêm túc các ý kiến của các đại biểu dự Hội nghị; nghiên cứu, tham mưu, sớm trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về tập trung nguồn lực để phát triển thị trường lao động và nâng cao chất lượng nhân lực nhằm phục hồi nhanh kinh tế xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây sẽ là bước quan trọng khởi đầu cho sự phát triển của thị trường lao động trong thời gian tới.

Chúc các đồng chí mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành công.

Xin trân trọng cảm ơn!



[1] Cụ thể, tỷ lệ bao phủ của bảo hiểm xã hội mới ở mức 34,65% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động; tỷ lệ bao phủ của bảo hiểm thất nghiệp là 28,17%.